Tỉnh thành | Không rõ |
Thời kì |
- Dựng nước (2000 - 258 trCN) |
Thuỷ tổ dân tộc Việt Nam, họ Hồng Bàng dựng nước, 18 đời đều xưng hiệu Hùng Vương; (theo Hùng triều ngọc phả và Thiên Nam bảo lục diễn ca). 1. Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu hiệu là Hùng Dương Về danh hiệu Hùng Vương, gần đây có nhiều học giả cho rằng chữ Lạc đã chép sai ra Hùng, nên phải gọi là Lạc Vương thay vì Hùng Vương. Đến nay di tích này còn trên đỉnh Hùng Sơn cách Hà Nội 97 cây số, cũng gọi là núi Đền, là Nghĩa Lĩnh hay Nghĩa Cương. Bia đề 4 chữ to "Cao sơn cảnh Hùng". Nơi đền thượng, phía ngoài nêu 4 chữ Nam thiên triệu tổ. Gian giữa, tấm hoành lớn ghi Hùng Vương miếu. Trên bàn thờ có ba bài vị, bài vị chính ghi Khai quốc hồng đồ, đột ngột cao sơn cố Việt Hùng thị, thập bát thế thánh vương. (Mười tám đời vua thánh dòng Hùng nước Việt xưa, non cao chất ngất nên sự nghiệp to mở nước). Hai cột chính giữa điện có đôi câu đối: "Thiên địa trường tồn, ức vạn niên do truyền quốc tổ. (Trời đất còn dài, ức muôn năm vẫn truyền là quốc tổ, Trong đền có rất nhiều câu đối chữ Nôm và chữ Hán. Về chữ Nôm có hai câu đối đáng chú ý: Vật đổi sao dời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích; Về chữ Hán, đôi câu đối sau đây bút pháp thần tình: "Vấn lai dĩ sự tu vi sử (Hỏi lại chuyện xưa nên chép sử, Có người cho đôi câu đối ấy là của chúa Trịnh đô vương Trịnh Sâm cách nay hơn 200 năm. Đến nay, toàn dân đã công nhận ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ Quốc tổ của nhân dân ta. |